TIỂU HAY ĐẠI NGÃ
Trong Kinh nói: Hết
thảy pháp hữu vi đều là như chiêm bao, như huyễn thuật, v.v...; đó là nói về
giáo nghĩa Tánh không và Vô ngã bằng kinh nghiệm trực giác hay thực chứng. Giáo
nghĩa này về sau được các Bà-la-môn học Vệ-đà thay thế bằng học thuyết như
huyễn tức māyā và hữu ngã tức ātman. Những điểm tư tưởng này là tinh yếu của
các tập Upanishad. Nói một cách đại cương, thế giới này chỉ là huyễn hóa, vậy
ta là ai, hay ta là cái gì, trong tấn tuồng huyễn hóa này?
Như vậy có thể
thấy ảnh hưởng của các tỳ-kheo a-lan-nhã đối với các đạo sĩ soạn tập Sâm lâm
thư để rồi phát triển thành tư tưởng triết học Upanishad. Thế nhưng, về sau do
sự phục hồi địa vị của giai cấp Bà-la-môn, những người Ấn Độ giáo thâu thái rất
nhiều giáo nghĩa của Phật trong đó có giáo nghĩa Tánh không diễn thành như
huyễn, rồi cho rằng tư tưởng "tánh Không" trong các bộ Bát-nhã là do ảnh hưởng của
Upanishad. Cũng có nhiều Phật tử tin điều này nên cho rằng kinh điển Bát-nhã
cũng như của cả Đại thừa chịu ảnh hưởng của Bà-la-môn giáo, thay vì ngược lại.
Vậy, Upanishad là phản ứng của các
Bà-la-môn, họ vay mượn giáo nghĩa Tánh không tức Vô ngã trong các kinh Bát-nhã.
Vì phủ nhận sự tồn tại của tự ngã thường hằng là phủ nhận luôn cả sự tồn tại
của Brahman, là Thượng đế Sáng tạo.
Ngay cả trong Phật giáo, sau khi Phật nhập niết-bàn, trong nội bộ Phật giáo đã
xuất hiện một số bộ phái chấp nhận có tự ngã hay ātman, như Độc tử bộ hay Hóa
địa bộ. Những bộ phái này lý luận rằng, nếu không tồn tại một tự ngã, không có
một cái tôi thường hằng bất biến, vậy ai hay cái gì luân hồi, lang thang chìm
nổi trong biển sinh tử? Cũng nên biết rằng tự ngã hay ātman trong tư tưởng tôn
giáo Ấn Độ là cái mà trong các tôn giáo, Đông cũng như Tây, hiểu là linh hồn.
Cho nên, có linh hồn mới có đầu thai, mới có việc sinh lên Thiên đường hay đọa
địa ngục như là hậu quả của hành vi tội hay phước.
Giáo nghĩa Phật
dạy, có tác nghiệp thiện ác, có quả báo lành dữ, nhưng không có người hành
động, không có người thọ quả. Đây là điều rất khó hiểu.
Chúng ta nên đi từ cái dễ, rồi đến cái khó. Cái dễ hiểu là tất cả đều có một
cái tôi: tôi đi, tôi đứng, tôi ăn, tôi ngủ, v.v... Nhưng khi người ta ngủ, mà
ngủ như không chiêm bao, thì hình như cái tôi này biến mất. Hoặc như người bị
tai nạn mà mất trí nhớ, không còn nhớ ra mình là ai. Nếu được chữa trị, trí nhớ
phục hồi, bấy giờ vẫn là cái tôi như khi trước. Rồi khi người ta chết, cái tôi
ấy còn hay không? Thừa nhận còn, tức là thừa nhận có linh hồn tồn tại bất biến,
khi thức cũng như khi ngủ, lúc còn sống cũng như sau khi chết.
Đấy là kinh nghiệm thường nhật về một cái
tôi. Kinh nghiệm ấy là sự tích lũy trong một đời người những hoài niệm, những
đau khổ, hạnh phúc, những danh vọng, khốn cùng. Từ những kinh nghiệm tích lũy
ấy mà hình thành ý tưởng về một cái tôi thường hằng. Trong trình độ thấp nhất,
cái tôi ấy được đồng hóa với thân xác và những sở hữu cho thân xác. Vị đại
hoàng đế có cả một đế quốc: ta và đế quốc của ta. Nhưng một khi thân xác này
tan rã, mà chắc chắn là như vậy, thì ta là ai, mà đế quốc này là gì ? Những
hoàng đế ấy, như Tần Thủy Hoàng, Hán Vũ Đế, Thành Cát Tư Hãn, tin vào một cái
ta và thân xác ta có thể tồn tại lâu dài, vì không muốn cái danh vọng, quyền
lực đang có mất đi; họ đi tìm đạo sỹ, cầu thuốc trường sinh. Những người đi tìm
trường sinh ấy, bây giờ ở đâu?
Lại còn những người khác, giàu sang có cả một cơ đồ, nhưng khi thị trường chứng khoán sụp đổ, nhảy lầu tự tử. Ta và tài sản của ta; cái này mất thì cái kia cũng không còn lý do tồn tại. Thật sự thì ở đây ta là ai, trong cái cơ đồ phú quý ấy?
Lại còn những người khác, giàu sang có cả một cơ đồ, nhưng khi thị trường chứng khoán sụp đổ, nhảy lầu tự tử. Ta và tài sản của ta; cái này mất thì cái kia cũng không còn lý do tồn tại. Thật sự thì ở đây ta là ai, trong cái cơ đồ phú quý ấy?
Với một hạng người khác, ta là danh, đã
sinh ra trong trời đất, thì phải có danh gì với núi sông. Một mai vật đổi sao
dời, để bảo tồn danh tiết, họ đâm cổ tự sát. Vậy, ta là gì trong cái danh này?
Với những tín đồ tôn giáo tin vào một linh hồn bất tử, một cái ta tồn tại trên thiên đường, hưởng những lạc thú mà Thượng đế ban cho vì đã biết phục tùng Thiên ý. Vì thế họ sẵn sàng giết đồng loại để thể hiện tín ngưỡng dưới trần gian.
Với những tín đồ tôn giáo tin vào một linh hồn bất tử, một cái ta tồn tại trên thiên đường, hưởng những lạc thú mà Thượng đế ban cho vì đã biết phục tùng Thiên ý. Vì thế họ sẵn sàng giết đồng loại để thể hiện tín ngưỡng dưới trần gian.
Ta là ai, ta là cái gì, để vì phục vụ nó, bảo tồn nó, mà tự gây khổ cho mình,
và cũng gây khổ cho người? Có chăng một cái ta thường hằng, siêu việt thân xác
này, và tâm trí này, để cho mọi hành vi trong một đời người, dù thiện hay ác,
ngu hay trí, chỉ nhằm mục đích là phục vụ nó, vì ích lợi của nó, vì hạnh phúc
của nó, vì danh dự của nó, vì quyền lực của nó ?
Trước khi muốn hỏi ta là ai, trước hết nên hỏi, từ đâu có ý tưởng về cái ta ấy?
Trước khi muốn hỏi ta là ai, trước hết nên hỏi, từ đâu có ý tưởng về cái ta ấy?
Có một người mới
mua về một con chó, đặt tên cho nó Lucky. Ban đầu, gọi Lucky, nó dửng dưng, vô
cảm. Dần dần, nghe hai tiếng Lucky, nó mừng rỡ, ngoắt đuôi. Nó đã hiểu Lucky là
cái gì, và như vậy nó cũng hiểu nó là cái gì. Nó hình thành một cái vỏ tự ngã
mới qua một cái tên gọi mới. Trước khi có một tên gọi, nó vẫn tồn tại, và tự
bảo vệ sự tồn tại ấy. Nó tìm thức ăn, tìm chỗ ngủ, và cắn bất cứ ai đến gần như
muốn đe dọa, uy hiếp nó. Khi được đặt tên, toàn thể sự tồn tại ấy bây giờ tồn
tại dưới một cái tên gọi Lucky. Dù vậy, nếu có ai xúc phạm đến cái tên Lucky,
nó không có phản ứng gì. Nhưng với một con người, khi cái tên gọi, một cái danh
gì đó, mà bị xúc phạm, thì hãy coi chừng. Tất nhiên, con người cho đến một tuổi
nào đó mới biết nó tên gì, cũng như con Lucky vậy. Rõ ràng, cái danh mang nội
hàm tự ngã ấy chỉ là hư danh, nhưng con người cũng như vậy đau khổ hay hạnh
phúc bởi chính cái hư danh đó.
Một ông thầy
giáo có cái ngã là thầy giáo. Ai xúc phạm đến danh từ thầy giáo, chức nghiệp
nhà giáo, người ấy phải bị khiển trách.
Nó là ông vua, nhưng ban đêm lẻn ra ngoài thành chơi. Dân nào không biết mà đối xử vô lễ như với dân thường, hãy coi chừng.
Nó là ông vua, nhưng ban đêm lẻn ra ngoài thành chơi. Dân nào không biết mà đối xử vô lễ như với dân thường, hãy coi chừng.
Tự ngã chỉ là
một cái danh, và đó là giả danh do nghề nghiệp, hay do chỗ ngồi, chỗ đứng giữa
mọi người mà đạt thành. Cái giả danh chỉ mới hình thành trong một đời người
thôi, mà đã khó quên, khó trừ như vậy; nếu là cái ngã được tích lũy trong nhiều
đời, tất không dễ gì trừ bỏ.
Cái ngã của ông
xã trưởng chỉ to bằng cái xã của ông. Cái ngã của một quốc vương to bằng cái
vương quốc của ông. Cái ngã của một nhà thông kim bác cổ thì dài bằng thời gian
kim cổ, rộng bằng không gian đông tây. Cái ngã của một chúng sinh luân hồi
trong tam giới, tất cũng lớn bằng cả tam giới. Cái ngã ấy không phải dễ nhận
ra. Không nhận ra nó, để thấy nó là thật hay giả, thì cũng không thể tận cùng
biên giới đau khổ.
Trong kinh Phật
có một câu chuyện: Một thiên thần kia, hiện đến Phật, nói rằng trong quá khứ,
ông là một tiên nhân, có tên là Ngựa Đỏ, có phép thần thông quảng đại. Ông muốn
thấy được biên tế vũ trụ, để thấy được biên tế khổ, và chấm dứt khổ. Thế là
ông bắt đầu đi tìm biên tế của vũ trụ. Tuổi thơ của ông bấy giờ dài đến
một đại kiếp, đại khái là tỷ tỷ năm, nhưng không bao giờ thấy được cái biên tế
của vũ trụ. Rồi ông hỏi Phật: “Có cần đi suốt cái biên tế vũ trụ này mới chấm
dứt khổ không?” Phật xác nhận rằng, “Nếu không thấy được cái biên tế của vũ trụ
thì không chấm dứt được khổ”. Đức Phật lại nói thêm: “Nhưng không cần. Chỉ trên
cái thân cao một tầm này, với năm uẩn nầy, ta có thể biết được thế gian
sinh, thế gian diệt”.
Điều đó có nghĩa
rằng, thân thể này, với xúc cảm này, với tư duy này, với nhận thức này, là tập
hợp tích lũy cả một khối kinh nghiệm lớn bằng biên tế vũ trụ. Cái khối ấy đông
kết thành cái vỏ cứng dày. Nó chỉ có thể bị đập vỡ bằng "chày Kim-cang" mà thôi.
Nói tóm lại, giáo nghĩa trong kinh Kim-cang bắt đầu bằng sự đối trị tự ngã: vô ngã tưởng, vô nhân tưởng… Trong các tôn giáo, trong mỗi hệ thống tư tưởng triết học, đều có riêng một quan niệm về tự ngã. Trong nhiều tôn giáo, tự ngã là linh hồn do Thượng đế ban cho. Giữ cho linh hồn đừng bị mất, để sau này được hưởng ân phước của Thượng đế, đó là mục đích đời người.
Nói tóm lại, giáo nghĩa trong kinh Kim-cang bắt đầu bằng sự đối trị tự ngã: vô ngã tưởng, vô nhân tưởng… Trong các tôn giáo, trong mỗi hệ thống tư tưởng triết học, đều có riêng một quan niệm về tự ngã. Trong nhiều tôn giáo, tự ngã là linh hồn do Thượng đế ban cho. Giữ cho linh hồn đừng bị mất, để sau này được hưởng ân phước của Thượng đế, đó là mục đích đời người.
Trong Nho giáo,
người quân tử phải biết lập thân và lập danh. Lập thân cho hiện tại, lập danh
cho hậu thế. Đó là xác lập tự ngã trong xã hội.
Lão Tử nói: ta
có đại hoạn vì ta có thân. Nếu ta không có thân, nào đâu có đại hoạn? Đó là hãy
sống trọn tuổi trời chớ đuổi theo hư danh, hãy để cho thân và danh cùng mục nát
với cỏ cây.
Các đạo sĩ
Upanishad đi tìm cái tự ngã chân thật là gì. Vượt ra ngoài cái tôi trong đời
sống thường nhật, và cái tôi lang thang trong luân hồi để chịu đau khổ, có hay
không có một cái tôi thường hằng, chân thật ? Cái tôi như giọt nước biển bị cô
lập trong một cái vỏ cứng nhỏ mọn, vô nghĩa, trôi nổi bồng bềnh trong đại
dương; để rồi khi cái võ cứng ấy đạp vỡ, giọt nước ấy sẽ hòa tan vào nước biển
trong đại dương. Khi ấy, Tiểu ngã hòa tan vào Đại ngã.
Trong Phật giáo,
Tiểu ngã hay Đại ngã, chỉ là những khái niệm giả danh. Nhưng cái giả danh được
đông kết bởi tích lũy vô số vọng tưởng điên đảo. Cái ngã được hình thành trong
đời này, do ảnh hưởng truyền thống, tôn giáo, tư tưởng, xã hội, để từ đó hình
thành một nhân cách, một linh hồn, và rồi chấp chặt vào đó để mà tồn tại. Cái
đó được gọi là phân biệt ngã chấp.
Cái ngã do tích lũy từ điên đảo vọng tưởng nhiều đời, hình thành bản năng khát vọng sinh tồn nơi cả những sinh vật li ti nhất; đó là câu sinh ngã chấp.
Cái ngã do tích lũy từ điên đảo vọng tưởng nhiều đời, hình thành bản năng khát vọng sinh tồn nơi cả những sinh vật li ti nhất; đó là câu sinh ngã chấp.
Vì vậy, không
cần đi tìm ở đâu Tiểu ngã và Đại ngã, mà cần diệt trừ khái niệm giả danh bởi
vọng tưởng điên đảo.
(Tk.TTS)
No comments:
Post a Comment
Mời đóng góp ý kiến trong tinh thần xây dựng.
Đa tạ