VÔ DUYÊN
TỪ
(Cố ni sư Thích nữ Trí Hải)
Lòng từ bi của
chư Phật Bồ tát thường được mệnh danh là “vô duyên đại từ” và “đồng thể đại
bi”. “Vô duyên từ” là tình yêu không do sự thúc đẩy (duyên) từ bên trong (như
một tâm trạng đang cô đơn trống trải muốn tìm bạn để giải sầu) hay bên ngoài,
như khi thấy một đối tượng “hợp nhãn”.
“Vô duyên từ” là
Tình yêu tự nhiên không điều kiện, không nguyên nhân, không phải là một cảm xúc
giai đoạn, một phản ứng bên trong (nội tâm) hay một kích động bên ngoài, một
tình yêu thường trực trong đó không có cái chủ tể “yêu” và đối tượng “bị yêu”,
hoàn toàn vắng bóng “cái tôi” trong đó. Có thể nói khi có cái “tôi” thì không
có tình yêu, và khi có tình yêu thì không có cái tôi, hai chuyện ấy không thể
hiện hữu song hành. “Vô duyên từ” ví như hoa nở tỏa hương ngào ngạt khắp không
gian, nhưng hoa không bao giờ ý thức rằng “tôi nở cho người ngắm và ngửi đấy.
Hãy lại ngắm tôi đi, nếu không tôi sẽ cụp lại cho bõ ghét”. Không, hoa không
bao giờ nghĩ như vậy, nó chỉ có việc nở và tỏa hương, không cần so đo tính
toán, mình hãy nở cho ai, vì ai. “Vô duyên từ” cũng vậy là một tình yêu vô
lượng bủa khắp mọi người, mọi vật, khắp tất cả chúng sinh hữu tình, vô tình
không phân biệt. Đó là lòng thương chan chứa, trải an vui hòa bình trên khắp
mọi người mọi vật, không nỡ nhìn thấy một chúng sinh nào đau khổ, kể cả chính
mình, vì lòng từ không phân biệt mình, người. Cho nên hình ảnh đức Bồ tát Di
Lặc tượng trưng tâm đại từ (và Ngài được mệnh danh là Đức họ Từ, Từ thị) luôn
luôn có nét tươi vui, hài hòa với tất cả. Một trong những đặc tính của tâm từ
là chia sẻ niềm vui, hay “vui với người vui” trong khi một đặc tính của tâm bi
là “khóc với người khóc”. Nhưng “vui với người vui”- đặc tính của tâm từ- không
có nghĩa là “vui đâu chúc đó”, mà là một đức tính khó thực hiện, còn khó hơn cả
với đặc tính “khóc với người khóc” ở tâm bi. Từ là có thể vui cái vui của người
khác ngay cả khi cái vui ấy được xây trên sự đau khổ của chính mình. Ở đây ta
thấy rõ tâm từ khó thực hiện hơn “bi” rất nhiều: tôi dễ dàng chia sẻ nỗi buồn
(bi) với bạn nếu bạn trượt trong khi tôi thi đậu, nhưng thật khó mà chia sẻ cái
vui của bạn, nếu bạn đậu mà tôi rớt.
Tâm từ là cái
“thể” của tình yêu vô lượng, là tình yêu ấy khi ở trong trạng thái tĩnh, vô
hành, vô tướng. Nhưng không phải vì vậy mà tâm từ không có tác dụng, ngược lại,
nó là một chất xúc tác mạnh mẽ nhất khiến cho trời đất đổi mới, vạn vật vui
hòa. Cho nên nơi nào có thánh nhân cư trú, thì do mãnh lực từ tâm của vị ấy tỏa
ra, trú xứ đó thường ít bị tai ương hoạn nạn. Khi gần một vị có tâm từ, ta cảm
thấy hoan hỉ, thoải mái, bình an, mặc dù vị ấy không làm gì cho ta cả: đó chính
là mãnh lực của tâm từ. Như khi đức Thế Tôn trở về thăm phụ vương sau khi đắc
đạo, chú bé La Hầu La đứng bên Ngài hoan hỉ thốt lên: “Chỉ cái bóng của Sa môn
cũng làm cho con mát mẻ lạ thường!”
Vì tâm Từ là
tình yêu vô lượng ở trạng thái tĩnh, vô hành, cho nên yếu tố phá hỏng tâm từ,
nghịch với từ chính là tâm sân. Tâm từ làm cho mình, người mát mẻ bao nhiêu,
thì tâm sân làm cho mình, người nóng nực bấy nhiêu. Khi nổi sân là hết tâm từ,
trong lòng ta bồn chồn nóng bức, và tỏa ra một làn ám khí vây bủa mọi người
xung quanh, một độc chất có thể chết người theo một thí nghiệm khoa học hiện
đại. Người ta đã làm thí nghiệm bằng cách lấy hơi thở của một người đang sân
hận cho vào trong một ống nghiệm, và để hơi thở ấy ngưng tụ theo những điều
kiện thích hợp, thì cuối cùng dưới đáy ống nghiệm người ta được một độc chất
khá mạnh. Bởi thế người hay sân hận, lo nghĩ thì thường dễ nhuốm bệnh nội
thương do bởi tích chứa những độc chất kia.
Tâm sân và tâm
từ là hai tâm sở không đội trời chung, cái này có thì cái kia không có, do vậy
người sân hận nên luyện tập phép quán tâm từ, nghĩa là tình yêu vô điều kiện,
bình đẳng, không nguyên nhân.
Tình yêu ấy, khi
ở trạng thái động, thì chính là Đồng thể đại bi, lòng thương xót đặc biệt đối
với những chúng sinh đang đau khổ, cứu giúp những kẻ bị hoạn nạn tai ách, “khóc
với người khóc” như tục ngữ Ki tô giáo nói. lòng đại bi này cốt ở chỗ “đồng
thể”, xem người với ta đồng một thể, không khác gì cả, bình đẳng hoàn toàn,
không thấy có người cứu giúp và kẻ được cứu giúp, nghĩa là không có “cái tôi”.
Có xem đồng thể mới gọi là đại bi, nếu không chỉ là sự thương hại, “làm phước”
kiểu ban ơn cho người dưới để cầu danh cầu lợi. Trong đồng thể đại bi, cũng như
trong vô duyên đại từ, “cái tôi” hoàn toàn vắng bóng.
Tình yêu không
năng sở ấy, nghĩa là không phân biệt chủ tể đối tượng, là một năng lực mãnh
liệt ở khắp nơi như dòng điện mới có thể “ứng hiện tùy cơ”: vào quạt thì quạt
chạy, vào bóng đèn thì cho ánh sáng, vào tủ lạnh thì biến nước thành băng...
Nhưng khi có bóng dáng cái “tôi” xen vào, thì những trục trặc xảy đến cho thế
giới, và tai họa cũng khôn lường (như tai họa gây bởi dòng điện). Yêu càng
nhiều thì ghét càng lắm, năng lực ấy biến thành năng lực hận thù. Khi có “cái
ta” chủ tể của tình yêu, thì bèn có vô số vấn đề xảy ra, như : yêu nhân loại
như ta đây mới đúng cách, xê ra cho ta cứu nhân độ thế, v.v..
Nhưng khi tình
yêu không chia năng sở, không có người yêu và kẻ bị yêu, thì cũng không còn có
hình dung tên gọi nữa, nên tạm gọi là “Vô
duyên đại từ”.
No comments:
Post a Comment
Mời đóng góp ý kiến trong tinh thần xây dựng.
Đa tạ