DỤC VÀ
KHỔ
Cố Ni Sư Thích Nữ Trí Hải
Nếu bảo rằng dục
vọng đem lại đau khổ, vì không bao giờ dục được hoàn toàn thỏa mãn: sự bất mãn
phát sinh đau khổ, thì một người nông cạn có thể cãi rằng, dục đem lại hạnh
phúc khi được hoàn toàn thỏa mãn. Nói rằng “dục là khổ” chỉ là lập luận của kẻ
bất hạnh, luôn luôn thất bại trên đường đời, nên cuối cùng trở thành bi quan
yếm thế, không dám hưởng thụ, không dám hy vọng, chờ đợi một tia sáng nào từ
nơi sự sống. Nói tóm lại, đó là lập luận của một “kẻ phá hoại sự sống”.
Đó cũng là lời
mà những người ngoại đạo đương thời Phật thường chỉ trích Ngài, vì Phật thường
dạy dục vọng “như mũi tên, như cục bướu, như bệnh khổ, như hố than hừng”, và
người đã thoát khỏi dục vọng được Ngài ví như người “đã khỏi bệnh, đã được cởi
trói, đã ra khỏi tù ngục, đã được tự do.”
Đối với đức
Phật, dục vọng không những đem lại đau khổ, làm nhân cho khổ, mà dục vọng chính
là đau khổ, dục và khổ không hai, không khác. Khi nói “dục vọng đưa đến đau
khổ” do tánh chất vô thường của mọi sự vật (lạc thú đi đến chấm dứt phát sinh
tình trạng đau khổ) là ta nói đến hoại khổ, loại thứ ba trong ba loại
khổ - khổ khổ, hành khổ và hoại khổ. Nhưng khi nói “dục vọng chính là đau khổ”,
là ta nói về hành khổ, tức cấu tạo tâm sinh lý của một con người tự bản
chất đã là khổ, vì nó được dính liền với dục, một thứ “tội tổ tông” truyền
kiếp. Khi Phật dạy “ngũ uẩn trói buộc là khổ” tức Ngài ám chỉ đến cái khía cạnh
hành khổ này, nghĩa là sự vận hành của cái tôi, con đẻ của dục vọng và đến lượt
nó lại phải được nuôi dưỡng, tiếp nối sự sống bằng dục vọng. Dưỡng chất cho
“cái tôi” ấy chính là dục vọng, chính dục vọng phát sinh và làm tăng trưởng cái
tôi, cùng với muôn ngàn khổ lụy kèm theo đó.
Khi còn ở trong
vòng trói buộc của dục vọng, còn xem dục vọng là dưỡng chất, nghĩa là còn “cái
tôi”, và cần phải thỏa mãn nó thì con người còn thấy khoái cảm, lạc thú ở trong
“món ăn” dục vọng ấy. Chỉ khi nào thoát ra khỏi sự trói buộc của dục vọng, của
“cái tôi”, thì mới không còn thấy lạc thú khoái cảm nào trong “dưỡng chất trần
gian” đó nữa, mà ngược lại, chỉ thấy nó là nguồn gốc của mọi khổ đau…như bệnh
khổ, cục bướu, mũi tên, như thuốc độc, như hố than hừng.
Phật lấy ví dụ
một người bị bệnh phong hủi hành hạ, khi nổi cơn ngứa, anh ta quào quấu những
mụt nhọt trên thân cho chảy máu, rồi hơ vết thương trên hố than hừng. Trong khi
làm như vậy, anh ta cảm thấy khoái vô cùng vì đã ngứa. Ngược lại, một người đã
lành bệnh, hoặc một người không có bệnh, nếu đưa anh ta đến bên hố than hồng,
bắt quào da cho chảy máu, thì anh ta sẽ giãy giụa kêu la và trốn chạy. Vì sao?
Bởi vì máu me và lửa hừng tự bản chất là khổ, đối với người không có bệnh.
Nhưng với người đang bị bệnh cùi, do cơn đau hành hạ, anh ta cần phải xoa dịu
mình do đó lại có ảo tưởng khoái lạc đối với những thứ, những cách thức mà thực
chất chỉ thuần là khổ: đó là do cái nghiệp của anh ta.
Dục vọng cũng
như vậy, người còn bị xiềng xích trong cõi dục mới xem đó là khoái lạc, mới bám
víu và cho khổ là sướng, là mục đích của đời người nhưng với người đã thoát ra
khỏi “cõi ngục tù” này, thì dục chính là khổ, bất kể được thỏa
mãn hay không. Bởi vì, ngay dù được thỏa mãn mọi dục vọng, ham muốn, cái khổ
căn để vẫn còn y nguyên : ấy chính là sự cấu tạo tâm sinh lý của một con người
khiến cho nó phải được nuôi dưỡng bằng ái dục, lấy dục làm dưỡng chất. Mọi sự
thỏa mãn thực ra chỉ có tính cách tạm bợ, trá hình…như máu me, như hố than hừng
mà trong cơn bệnh hành, người bệnh cùi có ảo tưởng như đó là sự xoa dịu, đáp
ứng, cội nguồn khoái lạc.
Bởi vậy, điều
quan yếu đối với người bệnh hủi, là khỏi bệnh, chứ không phải đã ngứa
hay khỏa lấp, đè nén cơn đau.
Vậy là, do thói
quen từ nhiều đời kiếp ta vẫn cảm thấy khi được thỏa mãn mọi điều ước muốn, ham
thích đó chính là hạnh phúc tối thượng, và xem sự “vô dục” cũng đồng nghĩa với
chán đời, lãnh cảm. Quan niệm ấy không khác gì người “bệnh hủi” cười chê người
khỏe mạnh là đồ ngu, chỉ vì người thứ hai sợ hải lánh xa hố than và máu mủ.
No comments:
Post a Comment
Mời đóng góp ý kiến trong tinh thần xây dựng.
Đa tạ