CHUYỂN THỨC THÀNH TRÍ
1). Nhất Nguyên
Tương Đối
Dòng tâm thức luôn trôi chảy không ngừng
nghỉ vô thủy vô chung chạy dài theo thời gian và lăn trôi trong không gian vô
tận. Dòng tâm thức ấy hiện diện trong quá khứ, ngay cả hiện tại và cả tương lai
không lúc nào nó vắng mặt. Ở ngoại giới (không gian) hay trong nội tâm (tâm
khảm) không nơi nào mà dòng tâm thức không bị ảnh hưởng. Sáu Thức ra vào sáu
Căn, nhân đó có tham trước muôn cảnh tạo thành Nghiệp (Vô minh), che khuất Bổn
thể Chơn như. Do ba độc (Tham Sân Si) sáu giặc (Lục Thức hay Lục Tặc), nên
chúng ta bị mê hoặc và rối loạn thân tâm, trôi giạt trong sanh tử luân hồi, lăn
lóc trong sáu đường (Lục đạo: Thiên, Nhơn, A Tu La, Súc Sanh, Ngạ Quỷ và Địa
Ngục), chịu cảnh khổ đau. Nghiệp Thức như có hấp lực, lôi kéo Thân Khẩu Ý chạy
theo Tâm viên, Ý mã của mình. Tâm thức theo Thời Gian kết tụ. Dòng Tâm Thức bị
chi phối bởi Nhị Nguyên Tính hay là sự lăn trôi của Giác Thức. Giác Thức là Vô
Minh là Tâm Bất An. Muốn ra khỏi vòng kiềm tỏa của Vô Minh ta phải có Giác Trí
cũng như ta muốn ra khỏi bóng tối (Vô Minh) thì phải có ánh sáng (Giác Trí). Làm sao đạt được Giác Trí?
2). Năng Sở Song Vong
Căn Ý có hai phần, một phần hướng ra
ngoài là Ý Tác Động với đối tượng thành Ý Thức hay Tâm Thức, phần hướng sâu vào
trong có sẳn trong Tâm là Ý Tác Năng, khi ý niệm hóa Ý Thức hay Tâm Thức thành
Ý Trí hay Tâm Trí. Lúc Ý Thức ở cùng chung một nhà với Ý Trí, thì Năng Sở đã
song vong, căn trần đã phủ định, là Thức được chuyển thành Trí rồi, tức Nhất
Nguyên Tính Tương đối. Đó cũng là Pháp Môn Không Hai.
Thí Dụ:
Trong Kinh Duy Ma Cật (do Thích Huệ Hưng
Việt dịch), Phẩm Vào “Pháp Môn Không Hai” được giải lý như sau.
Bấy giờ ông Duy Ma Cật bảo các vị Bồ Tát
rằng:
- Các nhân giả! Thế nào là Bồ Tát vào
“pháp môn không hai”? Cứ theo sở thích của mình mà nói.
Trong Pháp hội có Bồ Tát tên là Quán Tự
Tại nói:
- Các nhân giả ! “Sanh”, “diệt” là hai.
Pháp vốn không sanh cũng không diệt, đặng vô sanh pháp nhẫn, đó là vào “pháp
môn không hai”.
Bồ Tát Đức Thủ nói:
- “Ngã”, “Ngã Sở”, là hai. Nhân có ngã
mới có ngã sở, nếu không có ngã thời không có ngã sở, đó là vào “pháp môn không
hai”….
Bồ Tát Đức Đảnh nói:
- “Nhơ”, “Sạch” là hai. Thấy được tánh
chơn thật của nhơ, thì không có tướng sạch, thuận theo tướng diệt, đó là vào
“pháp môn không hai”.
Bồ Tát Thiện Túc nói:
- “Động”, “Niệm” là hai. Không động thời
không niệm, không niệm thời không phân biệt; thông suốt lý ấy là vào “pháp môn
không hai”…
Bồ Tát Sư Tử nói:
- “Tội”, “Phước” là hai. Nếu thông đạt
được tánh của tội, thì tội cùng phước không khác, dùng tuệ kim cang quyết liễu
tướng ấy, không buộc không mở, đó là vào “pháp môn không hai”…
Bồ Tát Thiện Ý nói:
- “Sanh tử”, “Niết bàn” là hai. Nếu thấy
được tánh sanh tử thời không có sanh tử, không buộc không mở, không sanh không
diệt, hiểu như thế đó là vào “pháp môn không hai”v.v…
Khi đó Ngài Văn Thù Sư Lợi hỏi ông Duy
Ma Cật rằng:
- Chúng tôi ai ai cũng nói rồi, đến lượt
Nhân giả nói thế nào là Bồ Tát vào “pháp môn không hai?
Ông Duy Ma Cật im lặng không nói. Ngài
Văn Thù Sư Lợi khen rằng:”Hay thay! Hay Thay! Cho đến không có văn tự ngữ ngôn,
đó mới thật là vào “pháp môn không hai”. Chân lý thì không phải dùng ngôn ngữ
mà được! Tuy vậy, nếu không có ngôn ngữ thì không thể mô tả chân lý. Ngôn ngữ
là phương tiện để diễn đạt chân lý. Ngón tay chỉ mặt trăng. Từ ngón tay để thấy
mặt trăng, chứ ngón tay không phải là mặt trăng!
* “Pháp môn không hai” là lý thuyết
hướng dẫn làm thế nào nắm bắt thực tướng của sự vật tác động trong dòng tâm
thức của chúng ta, là sự thấy biết đối tượng, là chánh kiến, hướng dẫn để trầm
tư tĩnh lặng định tâm hay là thiền, đồng thời cũng hướng dẫn hành động trong
sinh hoạt hàng ngày.
Không hai ở đây có nghĩa là không có chủ
và khách, năng sở song vong, nhất nguyên tính hay là chân lý tương đối, là Tánh
không.
(HĐ tuyển chọn biên tập /Nhất Nguyên luận)
No comments:
Post a Comment
Mời đóng góp ý kiến trong tinh thần xây dựng.
Đa tạ