CHÂN LÝ CĂN BẢN
Chân lý căn bản
đệ nhất nghĩa, theo lời Phật dạy trong kinh Thắng Man chính là Diệt đế: sự tiêu
diệt khổ một cách triệt để, hay niết bàn - một cảnh giới không còn bóng dáng
tăm hơi của khổ. Nhưng muốn tiêu diệt hoàn toàn cái khổ thì phải thấy được cái
khổ ấy một cách toàn diện đầy đủ mọi khía cạnh, chi tiết. Như nhổ cỏ phải nhổ
tận gốc, diệt khổ cũng vậy, phải biết rõ tất cả gốc rễ mầm mống hình trạng của
nó, mới có thể diệt trừ được nó một cách toàn vẹn, triệt để.
Chỉ có đức Phật
mới thấy được toàn diện "Khổ đế" (chân lý về khổ) do đó mới biết được toàn
diện "Tập đế" (nguyên nhân của khổ) tức sự tích tụ, tập họp những nhận thức
mê lầm (vô minh) và những hành động của thân, miệng, ý (nghiệp). Nhờ sự biết
rõ Tập này một cách toàn diện mà Ngài mới tu Đạo diệt khổ toàn
diện "Đạo đế" và chứng "Diệt đế" toàn diện, tức chứng Niết bàn thực sự. Thành thử tất
cả tùy thuộc vào trình độ của cái thấy chân lý về khổ có toàn diện hay không.
Nếu cái thấy khổ chỉ ở trình độ lưng chừng, thì cũng chỉ có thể biết Tập một
cách cạn cợt, tu Đạo lai rai, chứng Diệt phiên phiến, nghĩa là chỉ tạm gọi là
diệt mà chưa thực sự là Niết bàn tối hậu Phật đã chứng. Do đó mà có niết bàn
của Thanh văn, niết bàn Duyên giác, khác với niết bàn của Phật. Trên phương
diện tuyệt đối chỉ có một niết bàn, nhưng khi đã nói có ba hạng niết bàn cũng
có thể nói có vô lượng niết bàn trên danh từ tùy theo trình độ người chứng mà
không phải niết bàn thực chất nghĩa là sự tiêu diệt hoàn toàn cái khổ.
Tại sao như vậy?
Tại vì như đã
nói, chúng ta không thấy được cái khổ toàn diện mà chỉ thấy nó một cách phiến
diện, “phiến diện” ở đây mang nhiều hình thức, tạm phân tích như sau:
1. Khi nghe nói
ĐỜI LÀ KHỔ ta chỉ hiểu đó là những nỗi khổ rõ rệt như tai nạn bệnh tật, chết
chóc nghèo đói. Lối suy nghĩ như thế cũng cạn cợt không khác gì nghe nói tới
“mê sắc” thì chỉ nghĩ sắc phụ nữ. Triết gia Schopenhauer còn cay cú cho rằng
chỉ có người ngu mới gọi đàn bà là phái đẹp. Ông ta ngược lại bảo nên gọi họ là
phái “thiếu thẩm mỹ” (xin lỗi các bà). Từ sự diễn dịch sai lầm ấy đi đến quan
niệm cho rằng nghèo mới khổ, giàu không khổ, bệnh mới khổ, lành mạnh thì không,
chết mới khổ, sống không. Có biết đâu rằng nghèo khổ một cách, giàu khổ cách
khác, bệnh khổ một cách, nhưng không bệnh khổ cách khác... đó là lối nhìn phiến
diện thứ nhất đưa đến sự thiếu khoan hồng, lòng ganh ghét đố kỵ với những
người, hoàn cảnh mình cho là sướng hơn mình.
2. Ta có thể
công nhận đời khổ, nhưng lại chống chế rằng đời ở chỗ này mới khổ, chỗ kia có
thể sướng. Do đó mà con người thường phóng tâm theo một ảo tưởng. Đó là lối
nhìn phiến diện thứ hai, chỉ thấy chỗ này khổ mà không thấy KHẮP NƠI ĐỀU
KHỔ.
3. Ta có thể
nghĩ rằng lúc này khổ, lúc khác hết khổ, sẽ sung sướng hơn. Do đó mà ta hy
vọng, đợi chờ, trông ngóng về tương lai, hy sinh hiện tại cho tương lai. Quan
niệm này đưa đến hai thái độ sống đều nguy hiểm như nhau. Một là sống buông
lung trụy lạc vì chán chường hiện tại, xem nó như một cái cầu, một đoạn đường
phải vượt qua càng nhanh càng tốt, một chén thuốc đắng phải nuốt ực cho xong.
Hai là sống ép xác khổ hạnh khó nhọc nai lưng làm lụng tích tụ tài sản vật chất
tinh thần để ngày sau, kiếp sau tọa hưởng. Đó là vì không thấy toàn diện
cái khổ ở vị lai.
4. Ta có thể
nghĩ rằng ĐỜI KHỔ thật đó, nhưng cũng có lúc vui đấy chứ. Như ăn ớt cay, uống
cà phê đắng, mà ta vẫn ưa thích mùi vị đắng cay. Ân ái là ràng buộc mà đa số
vẫn khoái thích hệ lụy cho dù nhiều lúc phải khổ trầy vi tróc vẩy vì nó. Vì
tham tiếc năm giọt mật ngũ dục ta đành chịu lao mình vào vực thẳm sinh tử luân
hồi triền miên. Vì ta chưa thấy khổ một cách toàn diện, chưa thấy rõ năm giọt mật cũng nằm
trong khổ (ta tách rời chúng ra), vì ta thấy “trong khổ cũng có vui” do đó mà
ta cứ phải mãi mãi chịu khổ, day dưa trói buộc với khổ đau không bao giờ dứt khoát được.
5. Ta có thể lý
luận rằng biết cách sống thì không đến nỗi khổ. Sống cách này khổ, cách khác
thì không, hoặc đỡ khổ hơn. Như một viên thuốc đắng nếu biết bọc một lớp đường
ra ngoài thì nuốt cũng được, không tới nỗi khó chịu. Vì lý luận như vậy mà ta
không quyết định thoát khổ với bất cứ giá nào, không thể can đảm chấm dứt với
toàn diện nỗi khổ, sợ rằng sẽ phải đối diện với hư vô. Như một cái mũi đã quen
ngửi mùi xú uế, chỉ biết chọn giữa cái thối nhiều với thối ít, mà không dám lìa
bỏ tất cả vì không biết khi ấy sẽ như thế nào !
Con người cũng vậy, rất sợ hãi
một tình trạng mình không biết đến, đó là cái KHÔNG, bởi vì nó đã quen bị vây
phủ bởi những cái CÓ, dù là những cái 'có' đau khổ, trói buộc, phiền não triền
miên. Như phẩn uế thối tha thì dù một chút xíu cũng vẫn thối, KHỔ cũng vậy,
phải tiêu diệt toàn diện, tận cùng, mới được gọi là niết bàn hoàn toàn thanh
tịnh. Muốn tiêu diệt khổ một cách toàn diện, đương nhiên điều này không dễ chút nào, thì ta phải thấy rõ mặt thật của
nó ẩn nấp dưới thiên hình vạn trạng, khổ được trá hình ngay cả dưới cái áo "hạnh phúc". Ta không được tự đánh lừa bằng những lý
luận để trì hoãn, mà cần phải cực kỳ can đảm, nếu thật sự sợ hải khổ đau và muốn đoạn tuyệt với nó thì phải đơn đao trực nhập “một nhảy liền vào đất Như
Lai” !
Cố Ni Sư Thích Nữ Trí Hải (Trích BNLS)
No comments:
Post a Comment
Mời đóng góp ý kiến trong tinh thần xây dựng.
Đa tạ