CON NGƯỜI MẠNH NHẤT
Trong kinh Tịnh
Danh, đức Phật dạy có hai hạng người có sức mạnh nhất: đó là người không có
tội, và thứ hai là người có tội mà biết hối cải – một sự hối cải rốt ráo phát
xuất từ tâm can, quyết chí đổi bỏ điều ác thực hành điều thiện.
Nói rõ hơn, con
người mạnh nhất là người không còn sợ hãi bất cứ gì, hoàn toàn vô úy.
Chúng ta sở dĩ sợ hãi trước hết là vì mình có tội, sợ bị trừng phạt, sợ mất
danh dự nếu người ta biết được, sợ mất lợi lộc, sợ mất vây cánh. Thứ đến, chúng
ta sợ hãi vì mong an toàn, sợ những đổi thay, bất trắc. Sự an toàn ấy bao gồm
nhiều phương diện.
Một con người ngã chấp càng nặng nề thì những điều kiện cho
sự an toàn ấy càng phức tạp. Đối với một người biết đủ thì được túp lều tranh
che mưa nắng, có hai bữa cơm cháo hàng ngày, vài bộ đồ mặc, đã tạm gọi là an
toàn. Nhưng đối với nhiều người chừng ấy chưa đủ. Thức ăn phải là cao lương mỹ
vị, chỗ ở phải đầy đủ tiện nghi. Áo quần phải sang trọng hợp thời trang. Và
sống phải có danh vọng địa vị, có nhiều bạn bè quyến thuộc vây cánh "cuộc
vui đầy tháng, trận cười thâu đêm" mới có sinh thú. Đối với những
người như vậy, sự an toàn trở nên dễ dàng bị đe dọa. Càng nhiều hàng rào phòng
thủ quanh bản ngã, ta càng thấy cái ngã dễ bị thương tổn, dễ mất an toàn. Vì nó
đã được đồng hóa với nhà cửa, bạn bè, của cải tài vật, danh tiếng, với đủ thứ
mà ta xem là nhu cầu thiết yếu cho sự sống. Khi cái ngã đã được bành trướng ra
vô tận qua những nhu cầu phức tạp, thì sự an toàn trở nên vô cùng mong manh, và
nỗi sợ hãi càng âm thầm tăng trưởng theo nhịp độ nhu cầu. Cần tiền ta sẽ sợ mất
tiền, cần tình sợ mất tình, cần danh sợ mất danh, cần tiện nghi vật chất sợ mất
tiện nghi vật chất, cần uy tín sợ mất uy tín, cần bạn bè sợ mất bạn bè. Và bởi
vì chúng ta cần quá nhiều thứ trên đời, nên nỗi sợ hãi có thiên hình vạn trạng.
Thông thường chúng ta không hoàn toàn ý thức nỗi sợ hãi bất an của mình, không
hoàn toàn ý thức nhu cầu thầm kín của mình cho đến khi một trong những nhu cầu
ấy bị trắc trở. Nghĩa là chúng ta chỉ ý thức được nhu cầu mình ở mặt trái
của nó: cái thương nhớ ấy là khi mất rồi! Mất rồi mới biết à, té ra ta cần như
vậy như vậy. Thành ra, thiên đường thực sự không bao giờ ở tầm tay vói, mà chỉ
ở một khoảng cách vô cực như những vì sao. Emily Dickinson diễn tả ý đó trong
những vần thơ đẹp:
My rose gays are for captives
Dim, long expectant eyes
Fingers denied plucking
Patient till paradise
(những hoa hồng nhung của tôi chỉ dành cho những kẻ
đang bị giam cầm, đang ngước những đôi mắt mỏi mòn chờ đợi - những ngón tay
không bao giờ với tới, kiên nhẫn cho đến ngày lên được thiên đàng)
Chúng ta cũng thế, giống như những kẻ tù đày đang bị
giam hãm chỉ biết ngước những đôi mắt tuyệt vọng nhìn đóa hoa mình không bao
giờ được hái. Có những nhu cầu thầm kín mà ta chỉ ý thức được khi gặp điều trái
lại làm cho ta bất mãn. Chẳng hạn, thông thường có thể ta không biết mình có
háo danh, ham tiếng khen hay không. Nhưng khi bị chê ta mới biết té ra mình
cũng thích được khen vì bị chê thì đau khổ. Mọi nỗi sợ hãi khác đều chứng tỏ sự
có mặt của nó bằng cách tương tự, nghĩa là bằng mặt trái.
Cái ngã càng lớn
thì nhu cầu càng nhiều. Nhu cầu càng nhiều thì sợ hãi càng nhiều. Một con người
có nhiều sợ hãi, nhiều vòng đai phòng thủ không thể gọi là người hùng mạnh.
Đức Bổn sư chúng
ta là người mạnh nhất trong những người mạnh, bởi vì Ngài đã triệt tiêu bản
ngã, bởi vì Ngài không còn một nhu cầu nào. Trong Kinh Sợ hãi khiếp đảm
(Trung Bộ I), Ngài đưa ra những lý do vì sao Ngài không còn sợ hãi, để ai muốn
đạt được đức tính vô úy, thì hãy sống như Ngài đã sống: thân nghiệp thanh tịnh
(nghĩa là không giết hại, trộm cắp, dâm dục), ngữ nghiệp thanh tịnh (không nói
dối, nói hai lưỡi, nói lời phù phiếm, lời độc ác), ý nghiệp thanh tịnh (không
tham, sân, si), mạng sống thanh tịnh (không tự nuôi sống bằng những nghề nghiệp
ác ôn), không có tham dục cường liệt, không lười biếng, không ngủ gà ngủ gật,
tâm không tán loạn (luôn luôn thiền định), thân không lăng xăng giao động,
không ham muốn lợi danh và tiếng khen, không khen mình chê người, không nghi
ngờ do dự, không ngu độn si ám... Ngược lại, Ngài sống điều độ, tỉnh giác, tinh
tấn, chánh niệm, ít nhu cầu, sáu căn luôn luôn an hòa tịch tịnh, có trí tuệ
sáng suốt. Nhờ vậy, với Ngài, không bao giờ có nỗi sợ hãi và bất thiện khởi lên
khi sống một mình trong những trú xứ xa vắng ở rừng núi hoang vu: Đức Phật quả
là Đấng Chiến Thắng (Jina) trong loài người, Con Người mạnh nhất.
(Cố Ni Sư Thích Nữ Trí Hải)
No comments:
Post a Comment
Mời đóng góp ý kiến trong tinh thần xây dựng.
Đa tạ