Quan điểm của Phật giáo về Vũ trụ - Thời Mạt Pháp
Triết lý Phật giáo nói đến định luật Thành, Trụ, Hoại,
Không và bốn giai đoạn nầy cứ luân hồi mãi. Như vậy, giai đoạn Hoại, Không là
thời kỳ cuối của chu kỳ thành lập Vũ Trụ, vạn vật.
Muôn vật giữa đời, có thạnh tất có suy, dù cho đạo
pháp của Phật cũng vậy. Nhưng động cơ chánh trong sự suy vong của nền đạo là do
con người chớ không phải do giáo pháp. Như hiện thời có thể nói Tam-tạng
Kinh-điển đầy đủ hơn xưa, nhưng sở dĩ gọi là mạt-pháp, vì con người kém đạo đức,
căn lành, không giữ đúng theo lời dạy của Phật. Cho nên người xưa có câu: “Nhơn
năng hoằng đạo, phi đạo hoằng nhơn”, chính
là ý nầy, “Người hay mở mang cho đạo, không phải đạo mở mang cho người”,
tuy câu nầy chỉ có ý nghĩa phiến diện!
Về đạo Phật, theo thuyết tam thời, thì hiện tại là
thời mạt-pháp; theo thuyết ngũ thời, hiện tại chính nhằm thời đấu tranh. Từ đây
về sau, cứ đúng theo thật tế mà nói, Phật-pháp có ở trong tình trạng tiệm suy,
nếu có vùng dậy cũng chỉ trong giai đoạn tạm thời, hay hoặc chỉ có ảnh hưởng
bên ngoài. Vậy, nhất là hàng Phật-tử, càng nên cố gắng thật học, thật tu, để
duy trì pháp vận, lợi ích thế gian, và phải làm với hết sức của mình.
Theo Kinh Phật thì Đức Thích Ca có tiên tri: Sau nầy vào thời Mạt pháp sẽ có Đức Phật Di Lặc ra đời, là một vị Phật thứ năm trong 5 vị Phật. Phật Di Lặc là một vị Bồ Tát sẽ nối tiếp Đức Thích Ca lập ra Hội Long Hoa để hóa độ chúng sanh. Hết thạnh rồi suy, hết suy lại thạnh, Phật Thích-Ca đã nhập diệt, Ðức Di-Lặc sẽ kế tiếp giáng sinh, nên chung qui chánh-pháp vẫn là bất diệt. Từ khi Phật Tích Ca tịch diệt đến nay, theo Kinh Phật, chia ra làm ba thời ký: Chánh pháp, Tượng Pháp và Mạt Pháp
1. Thời kỳ Chánh Pháp: Là thời ký Đức Phật còn tại thế
cho đến khi giáo lý của Ngài còn được phổ biến chân truyền. Phần đông ngươì tu
được chứng quả, thời gian nầy khoảng năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết
Bàn.
2. Thời kỳ Tượng Pháp: Thời kỳ nầy khoảng một ngàn năm
lúc chư vị đệ tử của Phật còn tại thế, nối nhau truyến Chánh giáo, nhưng vì
không được chân truyền nên đồ chúng đắc đạo quả ít so với thời gian Chánh pháp.
3. Thời Mạt Pháp: Phật giáo suy vi vì thất chân
truyền, thiên hạ thiên về vật chất mà không lo đến đường tinh thần nên rất ít
người chứng quả.
Theo Kinh Đại Tập, từ khi Phật tịch diệt về sau chỉ có
2.500 năm, chia ra 5 thời kỳ: Mỗi thời kỳ 500 năm và 500 năm sau cùng là thời
kỳ nhân loại xa lìa chánh pháp, theo tà thuyết, tìm đủ mọi mánh khoé để giết
hại nhau. Thời kỳ nầy là thời kỳ Mạt Pháp, sẽ có Đức Phật Di Lặc ra đời giáo
Đạo cho chúng sanh trở về Chánh pháp để lập đời Thượng Nguơn Thánh Đức, tạo một
Chu Kỳ mới là cuộc sống sẽ vô cùng tốt đẹp.
Tiếng Phạn là Bodhisattva, nghĩa là cứu độ tất cả mọi
người. Vị nầy còn một bậc nữa là thành Phật. Đức Di Lặc nay là vị Phật tá danh
là “Long Hoa Giáo Chủ Đương Lai Hạ sanh Di Lặc Tôn Phật”. Ngài là vị Phật mà vì
lòng Tư Bi thương nhân loại nên Ngài hạ mình giáng sanh để tận độ chúng sanh sẽ
gặp muôn khổ nạn trong thời mạt pháp này.
Những lời huyền
ký nói về thời mạt kiếp
Khi Ðức Thế-Tôn sắp vào cõi Niết-bàn, Ngài có huyền ký
tình trạng trong đời mạt-pháp và lúc chánh-pháp sắp diệt. Xin dẫn ra đây ít
đoạn để cho hàng Phật-tử xuất-gia, tại-gia tự kiểm điểm, gạn bỏ điều ác, tu tập
pháp lành.
Trong kinh Đại-Bi, Đức Phật bảo: “Nầy A-Nan! Khi ta nhập
Niết-bàn rồi, trong thời gian 500 năm rốt sau, nhóm người giữ giới, y theo
chánh-pháp, lần lần tiêu giảm; các bè đảng phá giới, làm điều phi pháp, ngày
tăng thêm nhiều. Do chúng-sanh phỉ báng chánh-pháp, gây nhiều ác hạnh, nên
phước thọ bị tổn giảm, các tai nạn đáng kinh khiếp nổi lên. Bấy giờ có nhiều
Tỷ-khưu đắm mê danh lợi, không tu thân, tâm, giới, huệ. Họ tham trước những y,
bát, thức ăn, sàng tòa, phòng xá, thuốc men, rồi ganh ghét tranh giành phỉ báng
lẫn nhau, thậm chí đem nhau đến quan ty, lời nói như đao kiếm.
Cho nên, A-Nan! Đối với những vị xuất-gia tu phạm
hạnh, thân khẩu ý thực hành đạo từ bi, ông nên cung cấp những thức cúng dường
cho đầy đủ. Vị nào đối với các phạm hạnh hoặc thấy, hoặc nghe, hoặc tin, hoặc
làm, hoặc nhiều, hoặc ít, ông nên làm thế nào cho họ không khởi lòng não loạn,
nên vâng giữ điều nầy ! Tại sao thế ? Vì
trong cõi ngũ trược vào thời mạt kiếp, có nhiều sự khổ nạn như: Đói, khát,bệnh,
giặc, cướp, nắng hạn, bão lụt, các loài trùng phá hại mùa màng, tóm lại có
nhiều nhân duyên làm cho chúng-sanh bị
xúc não.
A-Nan! Lúc bấy giờ có các hàng trưởng-giả, cư-sĩ, tuy
bị nhiều sự khổ não bức thiết, song vẫn sanh lòng tịnh tín, cung kính tôn trọng
ngôi Tam-bảo, bố thí, giữ giới, tụng kinh, tu các công đức, khuyên người y theo
Phật-pháp làm lành. Do thiện căn đó, khi mạng chung họ được sanh về Thiên-đạo,
hưởng các điều vui. Còn các Tỳ-khưu ác
kia, ban sơ dùng đức tin, tâm lành, bỏ thế tục xuất-gia; nhưng sau khi
xuất-gia, họ lại tham trước danh lợi, không cố gắng tu hành, nên kết cuộc bị đọa
vào ác đạo”...
Kinh Đại-Tập nói: “Trong đời mạt-pháp, có những vua,
quan, cư-sĩ ỷ mình giàu sang quyền thế, sanh tâm kinh mạn, cho đến đánh mắng người xuất-gia. Nên biết những kẻ gây
nghiệp ấy, sẽ bị tội đồng như làm cho thân Phật ra huyết...”
Trong kinh Pháp-Diệt-Tận, Đức Phật bảo: “Về sau, khi
pháp của ta sắp diệt, nơi cõi ngũ trược nầy tà đạo nổi lên rất thạnh. Lúc ấy có
những quyến thuộc ác ma vào làm Sa-môn để phá rối đạo pháp của ta. Họ mặc y
phục như thế gian, ưa thích áo cà-sa năm sắc, ăn thịt uống rượu, sát sanh, tham
trước mùi vị, không có từ tâm tương trợ, lại ganh ghét lẫn nhau. Bấy giờ có các
vị Bồ-Tát, Bích-Chi, La-Hán vì bản nguyện hộ trì Phật-pháp, hiện thân làm
Sa-môn, tu hành tinh tấn, đạo hạnh trang nghiêm, được mọi người kính trọng. Các
bậc ấy có đức thuần hậu, từ ái, nhẫn nhục, ôn hòa, giúp đỡ kẻ già yếu cô cùng,
hằng đem kinh tượng khuyên người phụng thờ đọc tụng, giáo hóa chúng-sanh một
cách bình đẳng, tu nhiều công đức, không nệ tổn mình, lợi người. Khi có những
vị Sa-môn đạo đức như thế, các Tỷ- khưu ma kia ganh ghét phỉ báng, vu cho những
điều xấu, dùng đủ cách lấn áp, xua đuổi, hạ nhục, khiến cho không được ở yên.
Từ đó các Tỷ-khưu ác càng lộng hành, không tu đạo hạnh, bỏ chùa chiền điêu tàn
hư phế, chỉ lo tích tụ tài sản riêng, làm các nghề không hợp pháp để sinh sống, đốt phá rừng núi làm
tổn hại chúng-sanh không có chút từ tâm. Lúc ấy có nhiều kẻ nô tỳ hạ tiện
xuất-gia làm tăng ni, họ thiếu đạo đức, dâm dật tham nhiễm, nam nữ sống lẫn
lộn, Phật-pháp suy vi chính là do bọn nầy. Lại có những kẻ trốn phép vua quan,
lẫn vào cửa đạo, rồi sanh tâm biếng nhác không học không tu. Đến kỳ tụng giới
trong mỗi nửa tháng, họ chỉ lơ là gắng gượng, không chịu chuyên chú lắng nghe.
Nếu có giảng thuyết giới luật, họ lược bỏ trước sau, không chịu nói ra hết.
Nếu có đọc tụng kinh văn, họ không rành câu, chữ,
không tìm hỏi bậc cao minh, tự mãn cầu danh,
cho mình là phải. Tuy thế, bề ngoài họ cũng ra vẻ đạo đức, thường hay
nói phô, để hy vọng mọi người cúng dường. Các Tỷ-khưu ma nầy sau khi chết sẽ bị
đọa vào Địa-ngục, Ngạ-quỷ, Súc-sanh trải qua nhiều kiếp. Khi đền tội xong, họ
thác sanh làm người ở nơi biên địa, chỗ không có ngôi Tam-bảo.
Lúc Phật-pháp sắp diệt người nữ phần nhiều tinh tấn,
ưa tu những công đức. Trái lại, người
nam phần nhiều kém lòng tin tưởng, thường hay giải đãi khinh mạn, không thích
nghe pháp, không tu phước huệ, khi thấy hàng Sa-môn chân chính thì rẻ rúng chê
bai, xem như đất bụi. Lúc ấy, do nghiệp ác của chúng-sanh, mưa nắng không điều
hòa, ngũ sắc hư hao, tàn tạ, bịnh dịch lan tràn, người chết vô số. Thời bấy
giờ, hàng quan liêu phần nhiều khắc nghiệt tham ô, lớp dân chúng lại nhọc nhằn nghèo
khổ, ai nấy đều mong cho có giặc loạn. Trong thế gian lúc ấy khó tìm được người
lương thiện, còn kẻ ác thì nhiều như cát ở bãi biển, đạo đức suy đồi, chư thiên
buồn thương rơi lệ.
Nầy A-Nan! Lúc đạo pháp ta sắp diệt, ngày đêm rút
ngắn, con người đoản mệnh, nhiều kẻ mới bốn mươi tuổi, tóc trên đầu đã điểm
bạc. Về phần người nam, bởi nhiều dâm
dật nên hay yểu chết, trái lại người nữ sống lâu hơn. Lúc ấy có nhiều tai nạn
nổi lên, như giặc cướp, bệnh tật, hạn hán, bão lụt... nhân dân hoặc không tin
hiểu đó là do nghiệp báo, hoặc vì sống quen trong cảnh ấy, xem như là việc
thường. Bấy giờ nếu có bậc Bồ-Tát, Bích-Chi, La-Hán dùng bi tâm ra giáo hóa, do
nghiệp ác của chúng-sanh và sức ngoại ma xua đuổi, cũng ít ai thức tỉnh nghe
theo để tu sửa, hoặc đến dự pháp hội. Còn bậc tu hành chân chánh, phần nhiều ẩn
cư nơi vắng vẻ, núi rừng xa xôi, giữ đời sống an vui đạm bạc, được chư thiên hộ
trì. Khi nhơn thọ giảm còn 52 tuổi, áo cà-sa của hàng Sa-môn đổi thành sắc
trắng, kinh Thủ-Lăng-Nghiêm và Bát-Chu-Tam-Muội tiêu diệt trước, các kinh khác
lần lần diệt sau, cho đến không còn văn tự.
Nầy A-Nan! Như ngọn đèn dầu trước khi sắp tắt, ánh đèn
bỗng bừng sáng lên rồi lu mờ và mất hẳn. Đạo-pháp của ta đến lúc tiêu diệt cũng
có tướng trạng như thế. Từ đó về sau trải qua thời gian vô cùng dài mới có Phật
Di-Lặc ra đời giáo hóa chúng-sanh”.
Lúc Ðức Di-Lặc thành chánh giác, Ngài ngồi nơi một gốc
đại thọ, cành cây như mình rồng, hoa nở tủa ra bốn bên như những đầu rồng, nên
gọi cây nầy là Long-Hoa-bồ-đề. Sau khi thành đạo quả, Phật Di-Lặc cũng ngồi nơi
đây mà thuyết pháp, nên lại có danh từ Long-Hoa-pháp-hội.
(Trích PHTY/HT. Thích Thiền Tâm)
No comments:
Post a Comment
Mời đóng góp ý kiến trong tinh thần xây dựng.
Đa tạ